Luật pháp Hôn_nhân_đồng_giới_tại_Việt_Nam

Luật Việt Nam hiện nay không công nhận hôn nhân đồng giới. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cấm kết hôn giữa những người đồng giới.

Ông Nguyễn Minh Thuyết, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cũng khẳng định tại một hội thảo về cộng đồng đồng tính: “Công nhận quyền của nhóm người đồng tính, song tính, chuyển giới, xã hội không mất gì mà chỉ được - được cho cả nhóm dân cư này và cho lợi ích chung của xã hội”.[33] Viện nghiên cứu Thanh niên - Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cũng ủng hộ cho phép người đồng tính kết hôn.[34] Bộ Y tế Việt Nam đề suất sửa đổi luật để công nhận hôn nhân đồng tính "vì đó là quyền con người".[35].

Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho rằng: "Hiến pháp vừa sửa đã nêu nguyên tắc "nam, nữ có quyền kết hôn" tức là chưa thừa nhận hôn nhân đồng giới. Như vậy luật không thể vượt Hiến pháp. Mà nếu 2 người đồng giới sinh sống thì phải xác định họ không thể sinh con, nghĩa là mục đích lập gia đình không đạt được nên cũng không thể gọi là hôn nhân. Ngay các nước phát triển, nơi thừa nhận hôn nhân đồng giới thì những quy định điểu chỉnh chi tiết trách nhiệm, quan hệ thì cũng chưa có hướng chính sách cụ thể"[36].

Theo tờ Diễn Ngôn của Viện nghiên cứu Xã hội, kinh tế và môi trường (iESS)[37], thực chất Hiến pháp sửa đổi 2013 không quy định "đóng cửa" với hôn nhân đồng giới[38].

  • Hiến pháp 2013 không quy định “hôn nhân là giữa một nam và một nữ” mà là “nam, nữ có quyền kết hôn.” Thay vì định nghĩa hôn nhân, Hiến pháp 2013 chỉ quy định về quyền kết hôn. Thực tế thì người đồng tính nam là nam giới, người đồng tính nữ là nữ giới, đồng nghĩa với họ cũng có quyền kết hôn theo quy định hiện hành của Hiến pháp. Quy định về "quyền kết hôn của nam, nữ” không ảnh hưởng hay ngăn cản quyền kết hôn của người đồng tính.
  • Nguyên tắc “một vợ một chồng” mà Hiến pháp 2013 nhắc tới với nội hàm "đơn hôn", có nghĩa “không ai được kết hôn với người khác khi đang ở trong tình trạng hôn nhân với một người”, nôm na là không được phép “hai vợ” hoặc “hai chồng.” Nguyên tắc này cũng không có nghĩa rằng hôn nhân phải là giữa một nam và một nữ."

Đến năm 2014, Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi đã bỏ quy định "cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính" từ ngày 1 tháng 1 năm 2015, thay thế bằng quy định "không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính" (khoản 2 Điều 8).[3][4]